1.Bối cảnh lịch sử-văn hóa,xã hội
a)Lịch sử:
Năm 1698, chúa Nguyễn cử Nguyễn Hữu Cảnh vào lập phủ Gia Định, gồm hai huyện Phước Long và Tân Bình; trong đó tổng Phước An thuộc vùng đất Bà Rịa – Vũng Tàu ngày nay. Từ đây, vùng này trở thành điểm dừng chân quan trọng trong các cuộc di dân mở cõi về phương Nam. Sau 1862, Bà Rịa – Vũng Tàu bị thực dân Pháp đô hộ. Chúng lập đồn điền, nhà máy, khai thác tài nguyên và biến Vũng Tàu thành khu nghỉ dưỡng cho quan chức Pháp.
Ngày 25-8-1945, nhân dân trong tỉnh giành chính quyền theo phong trào Tổng khởi nghĩa. Từ 1946 đến 1975, Bà Rịa – Vũng Tàu kiên cường trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và Mỹ, đóng góp nhiều chiến sĩ anh dũng, trở thành nguồn cảm hứng cho các tác phẩm nghệ thuật.
b)Văn hóa-xã hội:
Từ thế kỉ XVII, cư dân Thuận – Quảng theo các chúa Nguyễn đến khai phá vùng Đồng Nai – Đông Nam Bộ, cùng với cộng đồng người Hoa di cư vào mở đất. Vùng này sớm có sự hiện diện của giáo sĩ, thương nhân phương Tây, nên có cơ hội tiếp xúc sớm với chữ Quốc ngữ và văn hóa phương Tây.
Vì vậy, Bà Rịa – Vũng Tàu được xem là vùng đất mới, cởi mở, nơi giao thoa nhiều dòng văn hóa (Việt – Hoa – phương Tây), tạo điều kiện thuận lợi cho văn học viết hình thành và phát triển.
2.Quá trình hình thành và phát triển văn học viết ở Bà Rịa-Vũng Tàu trước 1975
a) Giai đoạn 1858 – 1945
+ Văn học chữ Hán – chữ Nôm
Giai đoạn sớm: Cảnh sắc và đời sống yên bình của vùng đất Bà Rịa – Vũng Tàu được thể hiện trong thơ chữ Hán của Trịnh Hoài Đức, Phan Thanh Giản, Nguyễn Liên Phong… với nhiều thể thơ truyền thống (thất ngôn, ngũ ngôn, lục bát).
Khi thực dân Pháp chiếm đóng, sáng tác mang nỗi đau mất nước và chí khí yêu nước của những người bị lưu đày như vua Thành Thái, Lã Xuân Oai (Côn Lôn thi tập), Phan Chu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng…
Thơ thời kỳ này dùng nhiều điển cố, nhưng vẫn có hình ảnh gần gũi đời sống Nam Bộ, thể hiện tinh thần yêu nước, bất khuất.
+ Văn học chữ Quốc ngữ
Bà Rịa – Vũng Tàu góp phần quan trọng vào buổi đầu văn học Quốc ngữ.
Nguyễn Trọng Quản (Đất Đỏ) được xem là người viết tiểu thuyết Quốc ngữ đầu tiên với Thầy Lazaro Phiên.
Huỳnh Tịnh Của có đóng góp lớn với các tác phẩm biên khảo (Chuyện giải buồn) và phiên âm truyện Nôm sang Quốc ngữ (Quan Âm diễn ca, Thoại Khanh – Châu Tuấn…).
Những người tù yêu nước ở Côn Đảo (Nguyễn Ngọc Tính, Trần Huy Liệu…) sáng tác thơ văn hiện thực mạnh mẽ phản ánh cuộc sống tù đày (Bữa cơm tù, Đi lấy san hô…).
Phê bình văn học phát triển với Kiều Thanh Quế (Long Điền) – một trong những cây bút phê bình tiêu biểu Nam Bộ, tác giả Ba mươi năm văn học, Phê bình văn học, Cuộc tiến hoá văn học Việt Nam...
b) Giai đoạn 1945 – 1975
Chủ lực sáng tác là các trí thức tiến bộ và chiến sĩ cách mạng. Tiêu biểu: nhà văn – nhà báo Tô Nguyệt Đình (Phước Lễ), người dùng văn chương làm vũ khí chống thực dân và chống Mỹ – Diệm. Tác phẩm nổi bật: Nam Bộ chiến sử (1949), vạch trần tội ác thực dân và khơi dậy tinh thần yêu nước, đã bị chính quyền Pháp thu hồi vì ảnh hưởng mạnh mẽ.
Đề tài nhà tù Côn Đảo tiếp tục xuất hiện mạnh mẽ trong văn học thời kỳ này:
Phùng Quán với tiểu thuyết Vượt Côn Đảo và bài thơ Tiếng hát trên địa ngục Côn Đảo (ca ngợi Võ Thị Sáu).Các tác phẩm khác: Sóng gầm Côn Đảo (Huyền Kiêu), Bất khuất (Nguyễn Đức Thuận), Từ Yên Bái đến Côn Lôn (Nguyễn Hải Hàn)…
Văn học giai đoạn này giàu tinh thần yêu nước, phản ánh cuộc đấu tranh gian khổ và ý chí kiên cường của người dân Bà Rịa – Vũng Tàu.
3.Các giá trị cơ bản của văn học trước 1975
a). Ca ngợi thiên nhiên và cuộc sống thanh bình
Văn học thời kỳ này dành nhiều trang viết để miêu tả vẻ đẹp trù phú của vùng đất Bà Rịa – Vũng Tàu. Núi non, biển trời, ruộng đồng xanh tốt hiện lên trong thơ Trịnh Hoài Đức hay Phan Thanh Giản như một biểu tượng của sự yên hòa, thịnh trị. Nó gửi gắm cho chúng ta về một tình yêu quê hương Bà Rịa nói riêng và đất nước nói chung.
b). Tô đậm vẻ đẹp đời sống và sinh hoạt của cư dân
Những trang sử, đặc biệt là Nam Kỳ phong tục nhơn vật diễn ca, nó tái hiện sinh động cuộc sống khai hoang của cư dân vùng Nam Bộ nhưnghề biển, lưới rê, chợ búa, đình miễu… Qua đó, độc giả thấy được sức sống mạnh mẽ, tinh thần cần cù và nét văn hóa giàu bản sắc của người dân Bà Rịa – Vũng Tàu.
c) Bày tỏ nỗi đau mất nước và tinh thần đấu tranh trước ngoại xâm
Khi thực dân Pháp nổ súng, văn học trong thời kì này đã phản ánh nỗi đau xé lòng của nhân dân và sĩ phu yêu nước. Những bài thơ như Sầu tây bể Cấp hay tiểu thuyết Tiếp Bội khắc họa sự áp bức, bất công.Đồng thời nó cũng khơi dậy khát vọng đứng lên đấu tranh. Và từ đó,văn học trở thành tiếng nói chống lại sự đô hộ, thể hiện ý thức dân tộc sâu sắc.
d) Ca ngợi nghị lực và ý chí kiên cường của những người tù Côn Đảo
Những bài thơ như Đập đá ở Côn Lôn hay các tác phẩm của Phùng Quán tái hiện “địa ngục trần gian” nhưng đồng thời tỏa sáng tinh thần thép, lòng trung kiên và niềm tin vào tự do. Đây là giá trị tinh thần mạnh mẽ nhất mà văn học Bà Rịa – Vũng Tàu để lại trước năm 1975.