1.Dương Bạch Mai ( 1904 – 1964): Ông quê ở xã Long Mỹ, huyện Đất Đỏ và là đảng viên Cộng sản đầu tiên của tỉnh. Sau khi theo học ở Liên Xô thì ông cũng tích cực truyền bá chủ nghĩa Mác – Lênin, đồng thời tham gia phong trào yêu nước và Quốc hội khóa I. Hơn nữa,một nhà cách mạng kiên trung như vậy góp phần lan tỏa tư tưởng cách mạng ở Bà Rịa – Vũng Tàu.
2. Hồ Tri Tân (1908 – 1983): Quê Quảng Trị, hoạt động tại Phước Hải (Đất Đỏ), ông sáng lập Chi bộ Cộng sản đầu tiên của tỉnh năm 1934. Dù bị tù đày, ông vẫn bền bỉ với lý tưởng cách mạng. Người đặt nền móng phong trào cách mạng ở Bà Rịa – Vũng Tàu.
3. Trần Văn Thượng (1918–1946) : Quê xã Long Phước, TP. Bà Rịa, xuất thân trong gia đình yêu nước. Từ năm 1943, ông tham gia phong trào Việt Minh, Thanh niên Tiền phong và Tổng khởi nghĩa Tháng Tám 1945 ở Bà Rịa. Sau cách mạng, ông tích cực xây dựng chính quyền, phong trào diệt giặc dốt và bảo vệ chính quyền non trẻ. Khi Pháp tái chiếm, ông chỉ huy Đội du kích Quang Trung chiến đấu anh dũng, hi sinh trong trận Giồng Ổi (20–4–1946). Ông là người con ưu tú của Long Phước, tiêu biểu cho tinh thần chiến đấu quên mình vì độc lập dân tộc.
4. Lê Thành Duy (1920–1946) :Quê phường Phước Trung, TP. Bà Rịa, xuất thân trong gia đình trí thức.Năm 1945, ông gia nhập Thanh niên Tiền phong và sau Cách mạng Tháng Tám được chọn vào lực lượng Quốc gia tự vệ.Khi Pháp tái chiếm, ông tham gia kháng chiến, làm cán bộ trinh sát, bị bắt tại Long Sơn ngày 22–5–1946.Dù bị tra tấn, ông vẫn kiên trung và bị xử bắn ngày 28–5–1946 bên sông Dinh.
5.Võ Thị Sáu (1933–1952) :Quê thị trấn Đất Đỏ, huyện Đất Đỏ, tham gia Đội công an xung phong từ năm 1947, dũng cảm thực hiện nhiệm vụ giao liên, trinh sát và tiếp tế cho cách mạng.
Năm 1950, bị địch bắt, tra tấn dã man nhưng vẫn giữ vững khí tiết và lòng yêu nước.Ngày 22–1–1952, bị xử tử tại Côn Đảo, trước lúc hy sinh chị hát Tiến quân ca và hô khẩu hiệu độc lập.Võ Thị Sáu hiến dâng trọn đời cho giải phóng dân tộc, trở thành biểu tượng anh hùng cách mạng.
Năm 1993, được Nhà nước truy tặng Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân, tên tuổi được đặt cho nhiều trường, đường, đoàn thể trên cả nước.
6.Huỳnh Tịnh Của (1834–1907): Quê xã Phước Long Thọ, huyện Đất Đỏ, hiệu Tịnh Trai, tên thánh Paulus Của, giỏi Hán – Pháp.Ông làm chủ bút Gia Định báo, phong phú hóa nội dung, đăng tải lịch sử, văn hóa, thơ và truyện cổ. Sáng tác nhiều tác phẩm giá trị như Chuyện giải buồn, Gia Lễ, Đại Nam quốc âm tự vị – bộ từ điển giải thích ngôn ngữ dân tộc.Là trí thức đi tiên phong, ông kêu gọi học chữ Quốc ngữ, sưu tầm văn hóa dân gian, chấn hưng giáo dục truyền thống.Đóng góp quan trọng cho sự phát triển chữ Quốc ngữ và văn hóa Việt Nam, trở thành nhà văn hóa lớn Nam Kỳ cuối thế kỷ XIX – đầu XX.
7.Phạm Hữu Chí (1905–1938) : Sinh ra ở An Ngãi, Long Điền, Phạm Hữu Chí từ nhỏ đã mang trong lòng khát khao tri thức và lý tưởng phục vụ đồng bào.Học tại Paris, ông tốt nghiệp xuất sắc ngành y, nhưng từ chối vinh hoa phú quý để trở về chữa bệnh cho nhân dân.Tay ông cứu sống biết bao mảnh đời, tâm hồn ông thắp sáng hình ảnh thầy thuốc giàu y đức và lòng nhân ái.Tinh thần yêu nước, tận tụy với nhân dân của ông lưu lại mãi, được đặt tên cho trường học, bệnh viện, đường phố, như một biểu tượng sống về tài năng và trái tim Việt.
8.Kiều Thanh Quế (1914–1948): Sinh tại Tam Phước, Long Điền, Kiều Thanh Quế sớm bộc lộ năng khiếu văn học và say mê nghiên cứu văn hóa.Ông học ở Pétrus Ký, dạy học tại Sài Gòn, đồng thời viết văn, làm báo và thành thạo nhiều thứ tiếng.Các tác phẩm tiêu biểu gồm tiểu thuyết, khảo luận và lý luận phê bình như Hai mươi tuổi, Ba mươi năm văn học.Ông đi tiên phong trong việc cập nhật các lý thuyết văn học phương Tây và giới thiệu tác phẩm nước ngoài, đồng thời phản ánh hiện thực xã hội Việt Nam.Sau Cách mạng tháng Tám, ông tham gia kháng chiến tại Bà Rịa và hi sinh năm 1948, để lại dấu ấn lớn trong nền văn học Nam Kỳ.
9.Hoàng Việt (1928–1967) : Tên thật Lê Chí Trực, quê ở Long Hương, Bà Rịa, Hoàng Việt sớm bộc lộ tài năng âm nhạc và chơi thành thạo nhiều nhạc cụ.Sau Cách mạng tháng Tám, ông tham gia Thanh niên tiền phong và sáng tác nhiều nhạc phẩm cách mạng được yêu thích.Trong kháng chiến chống Pháp, ông công tác tại nhiều đơn vị văn nghệ và sáng tác những bài ca nổi tiếng như Nhạc rừng, Mùa lúa chín, Lên ngàn. Năm 1954, ông tập kết ra miền Bắc, học tại Nhạc viện Xô-phi-a, Bun-ga-ri, sáng tác nhiều giao hưởng và tác phẩm lớn về quê hương.Năm 1967, ông hy sinh tại Cái Bè, Tiền Giang, để lại những đóng góp quan trọng cho nền âm nhạc cách mạng Việt Nam; năm 1996 được truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh.