1. Bối cảnh
Năm 1997, tỉnh Bình Dương được thành lập. Khi đó, Bình Dương là tỉnh kinh tế thuần nông, đời sống nhân dân còn nhiều khó khăn. Tỉnh có nhiều lợi thế về vị trí địa lí, diện tích, các điều kiện tự nhiên và dân số, thuận lợi cho quy hoạch phát triển, thu hút đầu tư, chuyển giao công nghệ. Tỉnh tiếp thu và kế thừa trọn vẹn các thành tựu của tỉnh Sông Bé trong 10 năm thực hiện công cuộc đổi mới như phát triển công nghiệp, thu hút đầu tư, tinh thần đoàn kết và sự năng động, sáng tạo của đội ngũ cán bộ. Đường lối phát triển kinh tế – xã hội của Đảng, đặc biệt là đẩy mạnh công cuộc đổi mới, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, đã tác động tích cực đến phương hướng phát triển kinh tế – xã hội của Bình Dương. Tỉnh được quy hoạch nằm trong vùng kinh tế trọng điểm phía Nam, tạo cơ hội thuận lợi cho quy hoạch và liên kết vùng, từ đó thúc đẩy phát triển kinh tế – xã hội.
Bình Dương được thành lập trong thời kỳ thế giới ổn định và hòa bình, thuận lợi để tập trung sức lực vào phát triển kinh tế. Xu thế toàn cầu hóa phát triển mạnh mẽ, quan hệ song phương và đa phương giữa các quốc gia ngày càng sâu rộng trên nhiều lĩnh vực. Các bước tiến vượt bậc trong khoa học công nghệ, đặc biệt là công nghệ thông tin và công nghệ sinh học, tạo điều kiện cho Bình Dương nhanh chóng hội nhập kinh tế toàn cầu, phát triển đối ngoại và tiếp thu nhiều thành tựu khoa học kỹ thuật, công nghệ mới phục vụ phát triển kinh tế – xã hội địa phương.
2. Giải pháp
Trong bối cảnh thiếu hụt vốn và nguồn nhân lực có trình độ cao, tỉnh Bình Dương đã lựa chọn “trải thảm đỏ thu hút đầu tư” và “trải chiếu hoa mời gọi nhân tài” là những giải pháp chủ đạo trong công cuộc đổi mới và hội nhập.
3. Thành tựu
Sau hơn 20 năm thành lập, nhờ các giải pháp đổi mới và hội nhập, Bình Dương trở thành một trong những tỉnh dẫn đầu cả nước về tăng trưởng kinh tế, quy hoạch đô thị, phát triển các khu, cụm công nghiệp tập trung và thu hút vốn FDI. Tình hình kinh tế – xã hội liên tục đạt mức tăng trưởng khá; giá trị sản xuất công nghiệp, nông nghiệp, thương mại và dịch vụ đều tăng; đời sống vật chất và tinh thần của người dân được cải thiện.
a. Cơ sở hạ tầng
Hạ tầng giao thông: Ngay sau khi thành lập, tỉnh đã xây dựng hệ thống giao thông với quốc lộ 13 là trục chính, các đường nhánh nối liền hai bên tuyến kéo theo sự hình thành hàng loạt khu và cụm công nghiệp. Đến năm 2020, toàn tỉnh có trên 2.421 km đường, với 3 quốc lộ 1A, 1K, 13 và các đường tỉnh, nhựa hóa 80–94%, cùng với việc nâng cấp vỉa hè và triển khai xây dựng đường giao thông nông thôn.
Hạ tầng kỹ thuật khác
Điện: Mạng lưới điện được quy hoạch, xây dựng các trạm hạ thế, đường dây 220kV, phục vụ sản xuất và dân sinh.
Cấp, thoát nước: Nhà máy nước, mạng lưới cấp nước đảm bảo nhu cầu sản xuất và sinh hoạt; hệ thống thoát nước và xử lý nước thải đạt công suất gần 70.000 m³/ngày.
Thông tin: Hệ thống bưu điện, viễn thông được mở rộng, đảm bảo thông tin liên lạc trong và ngoài nước.
Tài chính - tín dụng: Ngân hàng Nhà nước cùng các ngân hàng thương mại, liên doanh được củng cố, tạo điều kiện thành lập chi nhánh và phòng giao dịch.
Logistic: Các cảng, bến thủy nội địa như Bà Lụa, Thạnh Phước, Tân Vạn, Thanh An được đầu tư; xây dựng đường Mỹ Phước – Tân Vạn kết nối với vùng kinh tế trọng điểm.
4. Thành tựu kinh tế – xã hội giai đoạn 1997 – 2022
a. Tăng trưởng GRDP và cơ cấu kinh tế
Giai đoạn 1997 – 2021, tổng sản phẩm trong tỉnh (GRDP) tăng bình quân 10,86%/năm. Cơ cấu kinh tế phát triển đúng định hướng, tăng dần tỷ trọng dịch vụ và công nghiệp, đồng thời duy trì và nâng cao giá trị nông nghiệp hợp lý.
b. Phát triển đối ngoại và thu hút đầu tư
Tỉnh chú trọng công tác đối ngoại để khai thác tối đa quan hệ hợp tác quốc tế. Đến năm 2022, Bình Dương ký kết hợp tác hữu nghị với 10 địa phương nước ngoài và là thành viên chính thức của các tổ chức quốc tế như: Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu Á (Horasis), Hiệp hội Trung tâm Thương mại Thế giới (WTCA), Diễn đàn Cộng đồng thông minh thế giới (ICF), Hiệp hội Đô thị khoa học thế giới (WTA).
c. Phát triển công nghiệp
Công nghiệp là lĩnh vực trọng yếu làm thay đổi bộ mặt kinh tế – xã hội tỉnh. Giai đoạn 1997 – 2005, tốc độ tăng trưởng công nghiệp cao gấp 2 lần trung bình cả nước. Giai đoạn 2011 – 2020 vẫn đạt 10,1%/năm, vượt mức trung bình quốc gia (8,4%). Đến năm 2022, tỉnh có 11 cụm công nghiệp với diện tích 719,29 ha, trong đó 10 cụm đang hoạt động (Tân Đông Hiệp, Bình Chuẩn, An Thạnh, Thanh An…). Các khu công nghiệp điển hình: Việt Nam – Singapore, Sóng Thần, Đồng An, Việt Hương…
d. Hoạt động ngoại thương
-Xuất khẩu: Kim ngạch tăng từ 363,2 triệu USD năm 1997 lên 31,5 tỷ USD năm 2021 (tăng 86 lần), bình quân tăng 9,31%/năm. Mặt hàng chủ lực là công nghiệp chế biến; thị trường xuất khẩu đến 212 quốc gia, vùng lãnh thổ, lớn nhất là Mỹ, Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan, Trung Quốc, Singapore, Hà Lan, Thái Lan…
-Nhập khẩu: Năm 2021 đạt 24,7 tỷ USD, tăng 80 lần so với năm 1997, chủ yếu là thiết bị, máy móc, nguyên – nhiên liệu, vật liệu thiết yếu; thị trường nhập khẩu chính gồm Trung Quốc, Nhật Bản, Đài Loan, Hàn Quốc, Mỹ, Thái Lan, Malaysia, Úc, Đức, Philippines.
5. Thành tựu xã hội
a. Mức sống nhân dân
So với năm 1997, thu nhập bình quân đầu người của tỉnh tăng từ 5,8 triệu đồng/người/năm lên 153,6 triệu đồng/người/năm vào năm 2021 (tăng hơn 26 lần), là địa phương có thu nhập bình quân cao nhất cả nước (cao gấp 1,8 lần mức bình quân chung).
b. Đô thị hóa
Quá trình đô thị hóa diễn ra nhanh chóng về số lượng và tỷ lệ dân số thành thị. Năm 1997, tỉnh có 1 thị xã (Thủ Dầu Một) và 8 thị trấn, với tỷ lệ dân thành thị 29,3%. Đến 2021, tỉnh có 3 thành phố (Thủ Dầu Một, Thuận An, Dĩ An), 2 thị xã (Bến Cát, Tân Uyên), 5 thị trấn; tỷ lệ dân thành thị đạt 84,4% (cả nước là 37,1%).
Chủ trương đô thị hóa được thực hiện đồng bộ: cải tạo đô thị hiện hữu, xây dựng đô thị mới và phát triển đô thị thông minh – Thành phố mới Bình Dương. Diện mạo đô thị thay đổi rõ rệt với nhà cửa, đường xá, công viên, các công trình phúc lợi công cộng được xây dựng mới và chỉnh trang ngày càng tốt hơn.
c. Giải quyết việc làm
Năm 2021, dân số tỉnh đạt 2.685.513 người, tăng 4,54%/năm; lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên chiếm 60,33%. Tỉnh đã tạo việc làm mới cho 17.697 người, đạt 50,5% kế hoạch năm (kế hoạch 35.000 lao động).
d. Giảm nghèo
Năm 1997, tỉnh có gần 1.000 hộ thiếu đói và 14.662 hộ nghèo, chiếm 12% tổng số hộ dân, thu nhập bình quân đầu người 5,8 triệu đồng/năm. Đến đầu năm 2016, Bình Dương trở thành địa phương đầu tiên không còn hộ nghèo theo chuẩn của Trung ương, không có hộ tái nghèo; đời sống người dân nghèo được nâng lên bền vững.
e. Y tế và giáo dục
-Giáo dục: Cơ sở vật chất, trường lớp, giáo viên tăng nhanh; tỷ lệ tốt nghiệp phổ thông trên 99%; 79,08% trường công lập đạt chuẩn quốc gia. Số trường trung cấp chuyên nghiệp, cao đẳng và đại học tăng từ 5 năm 1997 lên 25 năm 2021, góp phần đào tạo và cung ứng nguồn nhân lực cho tỉnh và cả nước.
-Y tế: Chăm sóc sức khỏe và y tế đạt nhiều thành tựu, nâng cao chất lượng sống và bảo vệ sức khỏe người dân.
6. Một số khó khăn và thách thức
Dù đã đạt được nhiều thành tựu, Bình Dương vẫn còn đối mặt với những khó khăn và thách thức:
-Tăng trưởng kinh tế chưa bền vững, đặc biệt trong lĩnh vực công nghiệp, với xu hướng phát triển chậm lại trong những năm gần đây.
-Mối liên kết giữa doanh nghiệp FDI và doanh nghiệp trong nước chưa chặt chẽ.
-Sự phát triển nhanh của công nghệ thông tin, khoa học kỹ thuật, chuyển đổi số, trí tuệ nhân tạo… đòi hỏi nguồn nhân lực chất lượng cao, thích ứng với thời đại.
-Tăng dân số cơ học do phát triển kinh tế nhanh gây áp lực lên các vấn đề văn hóa – xã hội, như trường học, bệnh viện.
-Các vấn đề môi trường, khai thác tài nguyên quá mức, dịch bệnh, biến đổi khí hậu… vẫn là thách thức lớn.
-An ninh, trật tự xã hội còn tiềm ẩn nhiều yếu tố phức tạp.
Những khó khăn này đòi hỏi Bình Dương phải tiếp tục nỗ lực để vững bước trên con đường đổi mới và hội nhập.