50 năm giáo dục TPHCM • Học liệu GDĐP • Kho bài học đầy đủ theo lớp – theo khu vực •

Bối cảnh kinh tế - xã hội Thủ Dầu Một (1919 – 1945)

📘 Nội dung bài học

Thủ Dầu Một là một tỉnh thuộc Nam Kỳ trong hệ thống cai trị của thực dân Pháp. Từ sau Chiến tranh thế giới thứ nhất (1919) đến trước Cách mạng tháng Tám 1945, vùng đất này chịu ảnh hưởng trực tiếp của chương trình khai thác thuộc địa lần thứ hai (1919 – 1929) và cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới (1929 – 1933).

1. Chương trình khai thác thuộc địa lần thứ hai (1919 – 1929)

a) Bộ máy cai trị

-Để đẩy mạnh khai thác, Pháp cải tổ chính trị và tăng đầu tư vào nông nghiệp, công nghiệp, thương mại, ngân hàng.

-Ngày 1/1/1900, Tham biện Thủ Dầu Một đổi thành tỉnh Thủ Dầu Một, tỉnh lỵ đặt tại Phú Cường.

-Hệ thống hành chính: Tỉnh -> Tổng -> Làng, sau năm 1916 bổ sung cấp quận để siết chặt quản lý.Bộ máy cai trị duy trì đến năm 1945.

b)Chuyển biến về kinh tế

-Thủ Dầu Một có vị trí chiến lược: đất rộng, rừng nhiều, gần Sài Gòn, giao thông thuận lợi được Pháp đầu tư mạnh.

-Nông nghiệp: tăng diện tích và sản lượng lúa; hình thành 4 đồn điền cao su lớn của Pháp (Đất Đỏ, Viễn Đông, Michelin, J. Labbé); có thêm đồn điền chè, cà phê, mía, bông, hồ tiêu…

-Công nghiệp - tiểu thủ công: phát triển các cơ sở chế biến cao su, xay xát gạo, ép dầu, rượu, nước đá; nghề gốm, sơn mài, điêu khắc gỗ mở rộng quy mô và chất lượng.

-Thương mại: các chợ Lái Thiêu, Búng, Thủ Dầu Một, Thị Tín... trở thành trung tâm buôn bán nhộn nhịp.

-Hạ tầng giao thông: mở rộng đường sắt, đường bộ, đường sông liên kết khai thác mỏ - đồn điền - Sài Gòn - cảng biển.

-> Nền kinh tế tự cấp tự túc bị xóa bỏ, thay bằng kinh tế hàng hoá kiểu tư bản nhằm phục vụ việc khai thác và bóc lột của thực dân Pháp.

c) Chuyển biến về xã hội

Xã hội phân hóa sâu sắc:

-Địa chủ: chia thành đại địa chủ thân Pháp và tầng lớp trung, tiểu địa chủ có xu hướng yêu nước.

-Tư sản dân tộc - tiểu tư sản trí thức - tiểu thương: phát triển nhanh, trở thành lực lượng quan trọng trong phong trào đấu tranh.

-Nông dân (khoảng 90% dân số): phân tầng thành phú nông - trung nông - bần nông - cố nông.

-Đến năm 1929, toàn tỉnh có khoảng 30.000 lao động làm thuê, riêng đồn điền Dầu Tiếng có gần 1.000 công nhân.

-Nhân dân bị áp bức nặng nề bởi hàng loạt loại thuế và lao dịch, phải mua công trái, đóng góp vào quỹ chiến tranh -> đời sống cực khổ, mâu thuẫn xã hội tăng cao.

2. Tác động của cuộc khủng hoảng kinh tế 1929 – 1933

-Pháp tăng thuế nhập khẩu và rút vốn khỏi thuộc địa -> đồn điền cao su, cà phê, thuốc lá, mía, lúa… đình trệ.Hệ quả: 

+ Công nhân bị sa thải, giảm lương.

+ Nông dân mất mùa, phải cầm cố hoặc bán đất; tá điền nợ nần

 + Tiểu thương phá sản; tư sản – địa chủ nhỏ bị chèn ép.

-Pháp tăng sưu thuế gấp 2–3 lần, đồng thời đàn áp phong trào đấu tranh. Mâu thuẫn giữa nhân dân Thủ Dầu Một với chính quyền thực dân ngày càng gay gắt, tạo tiền đề cho phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc.

3. Phong trào yêu nước từ năm 1919 đến trước năm 1930

Sau Chiến tranh thế giới thứ nhất, tư tưởng dân tộc trỗi dậy mạnh mẽ ở Thủ Dầu Một. Năm 1923, Hội Danh Dự được thành lập tại chùa Hội Khánh bởi cụ Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc, cụ Phan Đình Viện, hòa thượng Thích Từ Văn và nhiều trí thức yêu nước. Hội hoạt động qua việc xem mạch, bốc thuốc, dạy chữ, truyền bá đạo lý yêu nước, khuyên dân không cộng tác với thực dân. Dù bị thực dân Pháp đàn áp và buộc giải tán vào năm 1926, Hội vẫn để lại ảnh hưởng lớn đối với phong trào yêu nước địa phương.

Từ năm 1925 đến 1929, công nhân ở các đồn điền cao su Đất Đỏ, Dầu Tiếng, Phước Hòa liên tục bãi công, phản đối chế độ lao động nặng nhọc và bất công. Năm 1926, Hội kín Nguyễn An Ninh hình thành tại Lái Thiêu, quy tụ nhiều thanh niên trí thức như Nguyễn Văn Tiết, Võ Văn Phèn, Hồ Văn Cống…, tạo thành lực lượng nòng cốt truyền bá tư tưởng giải phóng dân tộc. Các tổ chức này đặt nền móng cho sự lan tỏa của chủ nghĩa Mác – Lênin và phong trào cách mạng sau năm 1930.

4. Chi bộ cộng sản đầu tiên ra đời và phong trào cách mạng (1930–1935)

a. Sự ra đời của Chi bộ Cộng sản đầu tiên

Giai đoạn “vô sản hóa” (1928) đưa chủ nghĩa Mác – Lênin vào giai cấp công nhân và làm lan rộng phong trào cộng sản. Trong vùng Đông Nam Kỳ, nhiều chi bộ được thành lập, tiêu biểu là Phú Riềng (1929) và Đề-pô Dĩ An (1930). Tại Bình Nhâm – Lái Thiêu, phong trào yêu nước vốn sôi nổi khiến chủ nghĩa Mác – Lênin nhanh chóng bén rễ. Cuối 1929 – đầu 1930, thanh niên Bình Nhâm được giác ngộ cách mạng qua các nhóm cộng sản từ Gia Định và Sài Gòn.

Đến tháng 8–1930, Chi bộ cộng sản làng Bình Nhâm chính thức thành lập. Sau đó, chi bộ tổ chức Nông Hội đỏ tại nhiều xã, lập Hội tương tế tại các lò gốm, lò chén, lò đường, tạo thành mạng lưới quần chúng rộng lớn. Đây là tổ chức cộng sản đầu tiên của tỉnh Thủ Dầu Một, đóng vai trò trung tâm trong phong trào đấu tranh những năm 1930–1935.

b. Phong trào cách mạng 1930–1935

Cuối năm 1930, chi bộ Bình Nhâm lãnh đạo cuộc mít tinh kỷ niệm Cách mạng Tháng Mười và ủng hộ phong trào Xô Viết Nghệ Tĩnh, thu hút hơn 200 người tham gia. Từ 1932–1933, công nhân đồn điền Dầu Tiếng liên tiếp đấu tranh chống giảm lương, đánh đập và bóc lột; nhiều cuộc bãi công quy mô hàng nghìn người diễn ra, dẫn tới đụng độ đẫm máu khi lính khố xanh đàn áp.

Đặc biệt năm 1935, các lò gốm đồng loạt hạ tiền công, khiến hơn 1 vạn thợ thủ công và lao động trong 30 cơ sở tổng bãi công. Chi bộ Lái Thiêu lãnh đạo đấu tranh bằng các biện pháp gửi đơn tập thể, tổ chức tự vệ, giám sát chủ lò. Kết quả, chủ lò buộc phải giữ nguyên mức lương. Phong trào 1930–1935 chứng minh tinh thần kiên cường của công – nông Thủ Dầu Một và là tiền đề để thành lập Tỉnh ủy sau này.

5. Tỉnh ủy Thủ Dầu Một và phong trào cách mạng (1936–1945)

a. Thành lập Tỉnh ủy và phong trào dân sinh – dân chủ (1936–1939)

Tháng 2–1936, Tỉnh ủy lâm thời Thủ Dầu Một được thành lập gồm Trương Văn Nhâm, Nguyễn Thị Bảy và các cán bộ địa phương, đánh dấu việc tỉnh có cơ quan lãnh đạo thống nhất. Đầu 1937, Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh được công nhận chính thức, tạo cơ sở tư tưởng và tổ chức có phong trào cách mạng.

Khi đặc sứ Justin Godart đến Đông Dương, quần chúng Thủ Dầu Một hưởng ứng mạnh mẽ phong trào dân sinh – dân chủ. Hàng trăm nông dân, công nhân đã đưa yêu sách giảm thuế, tự do trồng thuốc lá, cải thiện điều kiện lao động, làm việc 8 giờ/ngày. Tại các đồn điền lớn như Dầu Tiếng, Thuận Lợi, chủ sở phải mở thêm nhà y tế, cải thiện chế độ lao động và giảm mức đánh đập, cho thấy hiệu quả của đấu tranh hợp pháp. Nhiều tù chính trị được ân xá trở về, góp phần củng cố lực lượng cách mạng.

b. Khởi nghĩa Nam Kỳ và đấu tranh đến năm 1945

Từ khi Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ (1939), thực dân Pháp đàn áp gắt gao, bắt lính, vơ vét của cải. Thực hiện Nghị quyết Trung ương 6, Xứ ủy Nam Kỳ chủ trương chuẩn bị khởi nghĩa. Ở Thủ Dầu Một, Ban khởi nghĩa do Bí thư Tỉnh ủy Hồ Văn Cống đứng đầu đã tích cực rèn vũ khí, tổ chức lực lượng và vận động binh lính.

Ngày 23–11–1940, khởi nghĩa Nam Kỳ bùng nổ tại Thuận Giao và lan rộng sang An Sơn, An Thạnh, Bình Nhâm, Tân Thới. Cờ đỏ sao vàng lần đầu tiên tung bay tại nhiều làng, đánh dấu tinh thần nổi dậy đồng loạt của nhân dân. Nhân dân các quận Lái Thiêu, Châu Thành, Bến Cát duy trì khởi nghĩa trong 8 ngày trước khi bị đàn áp khốc liệt. Nhiều lãnh đạo bị bắt, trong đó Hồ Văn Cống bị kết án và hy sinh tại Côn Đảo.

Ngày 27–3–1943, Tỉnh ủy Thủ Dầu Một được tái lập, tiếp tục lãnh đạo phong trào cho đến Cách mạng Tháng Tám 1945, góp phần giành chính quyền về tay nhân dân.

6. VAI TRÒ VÀ Ý NGHĨA

Thủ Dầu Một giữ vai trò quan trọng về chính trị, quân sự và kinh tế trong phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc. Phong trào ở đây góp phần khơi dậy tinh thần yêu nước, tiếp nối và phát huy truyền thống đấu tranh của Nam Kỳ và cả nước. Nhân dân Thủ Dầu Một tổ chức nhiều phong trào công nhân, các tổ chức cách mạng bí mật, thể hiện quyết tâm chống thực dân.

Địa bàn với rừng và đồn điền cao su tạo điều kiện cho giai cấp công nhân hình thành và phát triển. Từ chi bộ cộng sản đầu tiên đến Tỉnh ủy Thủ Dầu Một, phong trào cách mạng ngày càng trưởng thành, rút ra kinh nghiệm quý về tổ chức, chuẩn bị lực lượng và tiến hành đấu tranh. Các cao trào 1930–1931, 1936–1939 và Khởi nghĩa Nam Kỳ 1940 đã tôi luyện tinh thần và nâng cao năng lực lãnh đạo của cán bộ địa phương.

Phong trào còn phối hợp chặt chẽ với các tỉnh lân cận, tạo sức mạnh tổng hợp, giúp các chiến sĩ cộng sản bám chắc quần chúng, vận động công nhân, nông dân tham gia đấu tranh. Điều này là nền tảng quan trọng để Thủ Dầu Một tham gia tích cực vào Tổng khởi nghĩa Tháng Tám 1945 và góp phần giành chính quyền về tay nhân dân Nam Kỳ.