50 năm giáo dục TPHCM • Học liệu GDĐP • Kho bài học đầy đủ theo lớp – theo khu vực •

Khái quát văn học dân gian và chân dung nhân vật văn hóa nghệ thuật

📘 Nội dung bài học

  1,Khái quát văn học dân gian

a.Một số thể loại tiêu biểu của văn học dân gian Bình Dương

Bình Dương cũ là một trong những vùng đất có lượng lớn tác phẩm văn học dân gian đặc sắc và đa dạng thể loại.

·             Truyện kể dân gian(1) là những câu chuyện kể về các nhân vật và sự kiện tiêu biểu gắn liền với cuộc sống của người dân Bình Dương.Mỗi câu chuyện đều được kể theo thời gian tuyến tính.Cũng như những vùng đất xa xôi khác thì Bình Dương cũng từng rất phổ biến nhiều giai thoại nửa hư nửa thật, kể lại cho nhau nghe để giải trí,lần hồi trở thành truyện dân gian

Ví dụ: Câu chuyện về thầy thuốc tên Viễn ở làng Bình Sơn, rạch Bình Nhâm chuyên trị “mắc xương”; câu chuyện về ông Huỳnh Công Nhẫn (còn gọi là Huỳnh Công Thới) đánh cọp ở vùng Lái Thiêu, Bình Nhâm;...

·        Ca dao, dân ca ở Bình Dương là các sáng tác trữ tình dân gian, chủ yếu được truyền miệng dưới dạng những câu hát không cố định về điệu, và thường phổ biến theo thể thơ lục bát nhằm dễ nhớ, dễ thuộc. Những câu ca dao, dân ca được sưu tầm tại đây có thể là tác phẩm do người dân Bình Dương sáng tác hoặc được lưu truyền từ các vùng khác tới. Qua các sáng tác này, nhân dân Bình Dương đã gửi gắm những tình cảm sâu sắc về gia đình, tình yêu quê hương, đất nước và con người.

(1) Truyện kể dân gian hay còn gọi là truyền thuyết ở Bình Dương.

Ví dụ:

                        Thương cha dãi nắng dầm mưa

           Thương mẹ đi sớm về trưa dãi dầu.

                        Làm trai chữ hiếu làm đầu

           Bánh in bột nếp mua hầu mẹ cha...

                                               (Tổng tập thơ Bình Dương 1945 – 2005, Sđd, tr. 11)

·        Vè là một thể loại tự sự dân gian phổ biến ở Nam Bộ, được ví như những "bài báo truyền miệng" mang sức sống nhạy bén, lưu hành rộng rãi. Vè có lối kể "có vần có vè", không chỉ là nơi bộc bạch nỗi lòng thống khổ của người bị áp bức, bóc lột, mà còn thể hiện tài quan sát tinh tế qua lối nhân cách hóa và chơi chữ khi đề cập đến các chủ thể như hoa, trái cây, thứ bánh,....

Một số bài vè mang nét đặc thù của đất Bình Dương như vè Chợ Thủ ngày xưa, vè Đi chợ, vè Nước lụt Sông Bé, vè Làm chén,...

VÈ CHỢ THỦ NGÀY XƯA

Theo ông Nguyễn Văn Ớn

                                                                                    Chánh Mỹ – Thủ Dầu Một

Nghe vẻ nghe ve

Nghe vè Chợ Thủ

Đầu bài là Chợ Cá

Đường đi mát quá

Lại có hàng dương

Đi thẳng một đường

Lên cầu Ông Kiểm

Máy cưa bằng điện

Bá Nghệ một bên

Từ đó đi lên

Có hai dãy phố

[...]

Nhìn bốn cây cột

Có bốn con rồng

Chữ đề bên trong

Là Miếu Tử Trận

Có đường đắp ngắn Chạy thẳng Thành Quan

Có đường đắp ngang

Đi qua đầu dốc [...]

(Dân ca & Thơ ca dân gian Bình Dương, Sđd, tr. 257)

·        Hát ru(1) là một thể loại dân ca đặc trưng, thường được mở đầu bằng tiếng "ơ ầu ơ" với giai điệu nhẹ nhàng. Đặc điểm nổi bật của Hát ru ở Nam Bộ nói chung và Bình Dương nói riêng là không có nhịp điệu khúc chiết như các điệu lý, mà được diễn đạt một cách tự do, thoải mái, với nhịp buông lơi, nhặt khoan tuỳ hứng theo cảm xúc. Cấu trúc âm nhạc của Hát ru chịu sự chi phối mạnh mẽ của thể thơ dân gian. Đáng lưu ý, mỗi người hát ru lại sở hữu chất giọng hấp dẫn, đặc sắc không ai giống ai. Hát ru được xem là phần thưởng cao quý nhất dành cho trẻ thơ.

Ví dụ:

Tôi tưởng giếng sâu tôi nối sợi dây dài,

Chớ ai dè giếng cạn tôi tiếc hoài cái sợi dây.

·        Lý là khúc hát bình dân của người Việt, thể hiện nội dung sâu sắc về cuộc sống, tình cảm và ước mơ của người nông dân. Lý ở Bình Dương có tính chất tự do, phóng khoáng, không bị ràng buộc bởi không gian, thời gian hay thủ tục diễn xướng. Người dân thường "lý với nhau"(2)để giải khuây bất cứ lúc nào, bất kể nơi đâu, mà không nhằm mục đích thi thố tài năng.

·        Hò là thể loại dân ca thịnh hành và phát triển trên đất Bình Dương sớm hơn so với nhiều vùng ở Tây Nam Bộ, có thể từ cuối thế kỷ XVI và đầu thế kỷ XVII. Điều này gắn liền với việc ông bà ta từ miền Trung di cư vào Đồng Nai – Gia Định để khai phá lập nghiệp, mang theo vốn văn hóa truyền thống, trong đó có nhiều giọng hò. Hò được sử dụng rộng rãi trong đời sống lao động, như khi "gây"(3) cuộc hò lúc cấy trên đồng án, hò thi bên cối xay lúa, hay hò tâm tình bên cối giã gạo. Ở Bình Dương, có hai loại Hò tiêu biểu là Hò huê tình và Hò cấy.

(1)Khu vực Nam Bộ còn gọi hát ru là hát đưa em hãy hát ầu ơ ví dầu

(2),(3)Từ dùng của tác giả Lư Nhất Vũ trong Dân ca & Thơ ca dân gian Bình Dương, Sđd, tr. 52.

Ví dụ: Hò cấy có đối đáp (thông thường là nữ hò trước, nam đáp sau)

 Nữ:

Hò ơ...

Cái chữ gì chôn dưới đất

Cái chữ gì cất trên trang

Cái chữ gì mang không có nổi

Chữ gì gió thổi không có bay

Trai như anh mà đối đặng

Thì em ngửa bàn tay cho anh ngồi!

Nam:

Hò ơ...

Cái chữ thọ đường chôn dưới đất

 Còn cái chữ hiếu cất trên trang

Cái chữ tình mang không có nổi

Cái chữ tạc đá bia vàng gió thổi không có bay.

Trai nam nhân anh đà đối đặng...

Vậy em ngửa bàn tay cho anh ngồi!

                                    (Dân ca & Thơ ca dân gian Bình Dương, Sđd, tr. 58 – 59)

·        Đồng dao là những câu hát dân gian truyền miệng, thường do trẻ em hát trong lúc vui chơi, hoặc do người lớn sáng tác để mô phỏng thế giới quan của trẻ. Mặc dù đôi lúc chứa những câu vô nghĩa, mục đích chính của đồng dao là tạo ra âm điệu, tiết tấu vui nhộn gây hứng thú cho trẻ. Hiện nay, thể loại này vẫn lưu truyền rộng rãi ở Bình Dương, gắn liền với các hoạt động sinh hoạt đời thường và vui chơi của trẻ em.

b.Giá trị nội dung và nghệ thuật

Văn học dân gian ở Bình Dương là sự phản ánh tổng quát đời sống vật chất, tinh thần và tri thức nhân dân qua nhiều lĩnh vực. Các tác phẩm thể hiện nét đặc trưng văn hóa sinh hoạt cộng đồng, phản ánh các hiện tượng cuộc sống, trạng thái tình cảm, ước mơ và cách nhìn nhận về cuộc đời của quần chúng lao động.Đồng thời, văn học dân gian Bình Dương còn xây dựng hình mẫu nhân vật tiêu biểu (mạnh mẽ, đấu tranh cho cái thiện) và có vai trò giải khuây, giao lưu tình cảm trong lao động (như các bài Hò cấy mướn). Nhiều tác phẩm có giá trị sâu sắc, nêu cao những bài học về phẩm chất tinh thần, đạo đức và truyền thống tốt đẹp như tinh thần nhân đạo, lòng lạc quan, ý chí độc lập, tự cường, và niềm tin vào cái thiện.

Những tác phẩm văn học dân gian Bình Dương có tính hấp dẫn, dễ nhớ và lưu truyền lâu bền nhờ ngôn ngữ nghệ thuật được kết hợp với âm nhạc và vũ điệu, làm phong phú đời sống tinh thần.Các tác phẩm được lưu truyền qua nhiều hình thức như hát ru, đồng dao, lý, vè, hô lô tô, với những giai điệu đặc trưng riêng biệt khó tìm thấy ở các tỉnh lân cận. Đặc biệt, khác họa màu sác đặc thù điệu Lý ở Bình Dương thể hiện tính độc đáo qua việc ứng dụng uyển chuyển thang 4 âm, 5 âm và các điệu thức kết hợp khác tạo nên những sắc thái tình cảm khác nhau trên chiều ngang của giai điệu âm nhạc.Ví dụ: Lý con sáo (Thủ Dầu Một cũ),Lý trèo đèo(Dĩ An),Lý cây mít(Dầu Tiếng),...sử dụng thang âm của điệu thức Oán-một loại âm điệu thức đơn giản nhưng không phải dân tộc nào cũng có,khó tìm gặp.Việc này tạo nên sắc thái tình cảm riêng và màu sắc âm nhạc đặc thù, khác biệt so với dân ca Bắc Bộ.

Nội dung và nghệ thuật của các tác phẩm văn học dân gian Bình Dương thường mang chất lạc quan, trong sáng, có lúc hài hước, vui nhộn như các bài hò, hô lô tô, các bài vè (Vè nói láo, Vè nói ngược, Vè ăn hàng,...). Và những lời ca tiếng hát ấy vẫn còn làm say đắm lòng người hôm nay và cả mai sau.

c.Đóng góp của văn học dân gian Bình Dương

Văn học dân gian là ngọn nguồn nuôi dưỡng tâm hồn, là cơ sở cho văn học viết hình thành cả về nội dung và nghệ thuật. Trong đó, những câu chuyện dân gian Bình Dương về 20 “cọp ba móng” đã trở thành nguồn cảm hứng được nhà văn Lý Văn Sâm, Lưu Linh Tử,… nhắc đến ở thể loại tiểu thuyết, hồi kí,… trong bối cảnh thời kì kháng chiến chống Pháp của dân tộc, đã thu hút nhiều độc giả yêu thích như tác phẩm: Kòn Trô (1942), Một chuyện oan cừu (1954), Cọp Bàu Lòng – Võ Tòng Tân Khánh (1962),...

Để bảo tồn và phát huy kho tàng văn học dân gian, người dân Bình Dương đã tiến hành sưu tầm và khai thác (ghi âm, ghi lời) từ các nghệ nhân, tập trung nhiều nhất vào ca dao, dân ca để tạo nên dạng thức đặc thù, làm đa dạng hóa văn học dân gian Việt Nam.Kho tàng này là nơi đúc kết tri thức, kinh nghiệm sống của nhân dân về mọi mối quan hệ (con người với tự nhiên, xã hội và bản thân), với vai trò giáo dục quan trọng (tiêu biểu là hát ru). Nhiều làn điệu dân ca và bài Vè của Bình Dương đã gặt hái nhiều huy chương vàng trong các phong trào văn nghệ toàn quốc, minh chứng cho giá trị nghệ thuật và sức sống bền bỉ của chúng như: Vợ chồng làm biếng (Hoạt cảnh: lý cây khế, lý kêu đò và nói vè làm biếng), Thi tài nói dóc, Cô vợ ăn hàng, Vè các chợ, Lý qua rừng, Lý con cò, Lý rẫy lý vườn, Lý miễu lý đình, Lý tang tình, Lý trèo đèo (Bình Dương quê em), Hò cấy Tân Uyên, Hò cấy Bến Cát, Hò huê tình Thuận An,…

  2.Chân dung nhân vật nghệ thuật Bình Dương

Văn bản 1:

Huỳnh Văn Nghệ-Người mài gươm múa bút

·        Cuộc đời

Huỳnh Văn Nghệ (1914 – 1977), sinh tại làng Tân Tịch, tổng Chánh Mỹ Hạ, tỉnh Biên Hoà (nay thuộc xã Thường Tân, huyện Bắc Tân Uyên, tỉnh Bình Dương cũ). Ông là một người yêu nước, một nhà chỉ huy quân sự giỏi, nổi tiếng với tài thi ca, được nhân dân Đông Nam Bộ ca ngợi gọi là “thi tướng”.

Sau khi tốt nghiệp bậc Trung học (1932), Huỳnh Văn Nghệ vào làm công chức tại Sở Hoả xa Đông Dương (Sài Gòn). Ông tham gia phong trào Đông Dương Đại hội và bắt đầu làm thơ, viết báo bằng hai thứ tiếng Việt và Pháp. Trong cuộc đời cầm bút, ông mang nhiều bút danh như Hoàng Hồ, Huỳnh Nghệ Sĩ, Huỳnh Văn,…

Năm 1940, Huỳnh Văn Nghệ tham gia khởi nghĩa ở Nam Kì. Năm 1942, Huỳnh Văn Nghệ sang Thái Lan, tham gia thành lập chi bộ Đảng ở hải ngoại, lập nhóm Sống mạnh văn đoàn và làm chủ bút tờ báo Hồn cố hương. Tháng 7 năm 1945, Huỳnh Văn Nghệ được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương.

Trong quá trình hoạt động cách mạng, ông từng giữ nhiều chức vụ quan trọng như: Phó cục trưởng Cục Quân Huấn thuộc Bộ tổng tham mưu Quân đội Nhân dân Việt Nam, Trưởng ban Căn cứ Trung ương Cục miền Nam (R), Phó Bí thư Đảng uỷ căn cứ Trung ương Cục Miền Nam, Thứ trưởng Bộ Lâm nghiệp,… Với tài năng và đóng góp của một nhà quân sự tài ba, Huỳnh Văn Nghệ đã được Nhà nước truy tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân vào năm 2010.

·        Lĩnh vực quân sự

Năm 1944, Huỳnh Văn Nghệ trở về nước và tiếp tục tham gia kháng chiến. Từ năm 1945, ông hoạt động chủ yếu ở Đông Nam Bộ, đặc biệt là chiến khu Đ, tham gia cướp vũ khí của Pháp và giành chính quyền tại Biên Hòa.

Từ 1945 đến 1952, ông trực tiếp chỉ huy chiến đấu hơn 20 trận tại các mặt trận trọng điểm như Thị Nghè, đường số 1, Lạc An – Tân Uyên, Bến Cát, v.v.

Từ tháng 5 năm 1953, ông ra Bắc công tác tại Cục Quân huấn thuộc Bộ Tổng Tham mưu QĐND Việt Nam. Sau đó, từ năm 1964, ông chuyển sang công tác tại Bộ Lâm nghiệp.

 

·       Lĩnh vực thơ văn

Bên cạnh hoạt động cách mạng, Huỳnh Văn Nghệ còn được biết đến bởi tài năng thơ văn nổi bật. Tác phẩm của ông để lại gồm nhiều thể loại (khoảng 60 bài thơ, 7 truyện thơ, 6 truyện ngắn, 12 tuỳ bút và bút kí,…). Các sáng tác của Huỳnh Văn Nghệ đã được xuất bản gồm tập thơ Bên dòng sông xanh (NXB Tổng hợp Sông Bé, 1988); Thơ văn Huỳnh Văn Nghệ (NXB Tổng hợp Đồng Nai, 1998); Quê hương rừng thẳm sông dài (NXB Trẻ, 2002).

Trong sự nghiệp sáng tác, Huỳnh Văn Nghệ được nhắc đến nhiều nhất qua bài thơ Nhớ Bắc. Bài thơ đã thể hiện tình yêu đất nước tha thiết, niềm tự hào của người dân Nam Bộ về sứ mệnh gìn giữ từng tấc đất thiêng liêng, quyết bảo vệ Tổ quốc:

Ai về Bắc, ta đi với

Thăm lại non sông giống Lạc Hồng

Từ độ mang gươm đi mở cõi

Trời Nam thương nhớ đất Thăng Long!

 

Ai nhớ người chăng?

Ôi Nguyễn Hoàng!

Mà ta con cháu mấy đời hoang

Vẫn nghe trong máu sầu xa xứ

 

Non nước Rồng Tiên nặng nhớ thương.

Vẫn nghe tiếng hát thời quan họ

Xen nhịp từng câu vọng cổ buồn

Vẫn thương vẫn nhớ mùa vải đỏ

Mỗi lần man mác hương sầu riêng…

 

Sứ mạng ngàn thu dễ dám quên

Chinh Nam say bước quá xa miền,

Kinh đô nhớ lại… ôi đất Bắc!

Muốn trở về quê, mơ cánh tiên.

                        (Bên bờ sông xanh, Sđd, tr. 36)

Nhớ Bắc đã trở thành “ca dao kháng chiến” và thường được các mẹ, các chị, các chiến sĩ ở lại miền Nam ngâm lên mỗi khi nhớ về người chồng, người con, người thân đi tập kết như một sự gửi gắm lòng thương nhớ và niềm mong mỏi đất nước được thống nhất.

·        Quan điểm sáng tác

Ngay từ khi cầm bút, Huỳnh Văn Nghệ đã xác định vai trò của mình là thi sĩ dùng ngòi bút làm vũ khí tuyên chiến với giặc, do đó thơ ông mang nặng nỗi nước.Tiêu biểu là tập thơ Bên bờ sông xanh, đã khắc họa chân thực hiện thực cuộc sống và lịch sử đất nước, thể hiện rõ vai trò nghệ sĩ – chiến sĩ của ông. Thơ Huỳnh Văn Nghệ thấm nhuần "tư tưởng nghệ thuật vị nhân sinh" (thơ văn phải vì cuộc sống, vì con người). Ông cho rằng nghệ thuật phải là tiếng kêu đau đớn về thân phận hoặc tiếng ca thúc giục con người đứng lên giành lấy quyền tự do, quyền sống.

·        Đặc điểm về nội dung và nghệ thuật

Huỳnh Văn Nghệ là người trực tiếp tham gia hoạt động cách mạng, dùng thơ văn để thể hiện tư tưởng, nên nội dung các sáng tác của ông đặc biệt ở thể loại thơ đa phần viết về quê hương, về cuộc chiến đấu của quân và dân Đông Nam Bộ. Thơ Huỳnh Văn Nghệ giàu chất hùng tráng, nặng tình nước, tình dân.

Mục đích làm thơ của Huỳnh Văn Nghệ là đánh giặc và động viên người ra trận. Nội dung thơ ông phản ánh rõ nét hiện thực chiến khu Đ, từ trận chiến, sự hy sinh của chiến sĩ, lòng yêu nước của người dân, đến cuộc sống nghèo khó.Thơ ông sử dụng ngôn ngữ đời thường Nam Bộ, nên rất chân thực, mộc mạc và tự nhiên. Ông thể hiện giọng điệu hào sảng, tự hào khi ngợi ca đất nước (Là Ngà, Lịch sử quê hương) và khẳng định thơ ca cách mạng có thể uyển chuyển, sống động (Tân Uyên, Bến cũ). Ngược lại, những bài thơ như Mất Tân Uyên, Chiến khu Đ chống bão thể hiện nỗi uất hận, căm hờn giặc. Thơ Huỳnh Văn Nghệ gần gũi mà sâu sắc, thể hiện rõ tình cảm của người con yêu nước, thương dân.

Ở thể loại văn xuôi, Huỳnh Văn Nghệ viết về quê hương, về cuộc đấu tranh giữa con người với thiên nhiên trong quá trình khai phá vùng đất mới, về sự kiên cường, nghĩa khí, thấm đậm tình người, tình yêu nước của người dân chiến khu Đ.

Ngôn ngữ trong các tác phẩm văn xuôi của Huỳnh Văn Nghệ (như Quê hương rừng thẳm sông dài, Những ngày sóng gió) rất mộc mạc và mang tính tự thuật. Giọng văn đậm chất phóng khoáng của phương Nam, đôi khi kết hợp yếu tố huyền thoại từ chuyện dân gian với các yếu tố lịch sử, tạo nên vẻ đẹp khác lạ cho con người và đất rừng miền Đông (Trận mãng xà, Sấu mũi đỏ). Các tác phẩm miêu tả nhân vật chi tiết và sự việc đầy chân thực (Chùa Ông Mõ, Mất đồn Mỹ Lộc).

Năm 2007, Huỳnh Văn Nghệ đã được truy tặng Giải thưởng Nhà nước về Văn học nghệ thuật với các tập thơ Chiến khu xanh, Bên bờ sông xanh, Rừng thẳm sông dài. Ngoài ra, tên ông được đặt cho giải thưởng văn học nghệ thuật lớn của tỉnh Bình Dương: Giải thưởng Văn học nghệ thuật Huỳnh Văn Nghệ.

 

Văn bản 2

Lư Nhất Vũ-Người nghệ sĩ tài hoa

Nhạc sĩ Lư Nhất Vũ (Lê Văn Gắt) sinh ngày 13 tháng 4 năm 1936 tại Thủ Dầu Một, Bình Dương (nay là thành phố Hồ Chí Minh). Ông có niềm đam mê lớn với âm nhạc và thơ ca, bắt đầu có thơ đăng báo từ năm 16 tuổi với bài thơ đầu tay Mồ chiến sĩ (bút danh Lư Phong).

Sau khi học tại Học viện Âm nhạc Quốc gia Việt Nam, ông trở thành người hoạt động âm nhạc với nhiều tác phẩm được dàn dựng, trình diễn và đạt giải thưởng trên Đài Tiếng nói Việt Nam, được phổ biến rộng rãi.Từ đây, ông trở thành người hoạt động âm nhạc chuyên nghiệp.

Năm 1970, ông trở lại miền Nam và tiếp tục hoạt động nghệ thuật. Ông từng giữ nhiều chức vụ quan trọng như Phó Tổng Thư ký Hội Âm nhạc TPHCM, Ủy viên Thư ký Hội Nhạc sĩ Việt Nam, và Viện trưởng Viện Văn hóa Nghệ thuật Việt Nam tại TP.HCM.

·        Các sáng tác âm nhạc

Nhạc sĩ Lư Nhất Vũ đã sáng tác nhiều ca khúc in đậm dấu ấn như: Chiều trên bản Mèo, Cô gái Sài Gòn đi tải đạn, Bài ca đất phương Nam, và Bình Dương nơi mẹ sinh ta.

Đặc biệt, tuyển tập Bài ca đất phương Nam là ấn phẩm đồ sộ nhất của ông, được sáng tác trong hơn nửa thế kỷ (1955 – 2012). Tuyển tập này gồm 184 tác phẩm được chia thành 10 mục với nhiều thể loại như ca khúc thiếu nhi, hợp xướng, nhạc múa... Ca khúc cùng tên "Bài ca đất phương Nam" (lời Lê Giang, viết cho phim Đất phương Nam) đã truyền tải giai điệu và âm hưởng về thời lưu dân mở đất, mang đậm bản sắc văn hóa phương Nam.

·       Các công trình nghiên cứu

Ngoài sáng tác âm nhạc, Lư Nhất Vũ cùng nhà thơ Lê Giang (cũng là người bạn đời của ông) và những người bạn đã rong ruổi khắp các vùng miền của đất nước sưu tầm, ghi chép, phân tích,… và hoàn thiện lời ca, điệu hát để cho ra mắt trong các công trình liên quan đến ca dao, dân ca như: Tìm hiểu dân ca Nam Bộ, Dân ca Sông Bé, Dân ca & Thơ ca dân gian Bình Dương, Lý trong dân ca người Việt, Hát ru Việt Nam, Hò trong dân ca người Việt, Đi tìm kho báu vô hình,...

Đặc biệt, trong khoảng thời gian từ năm 1987 – 1989, Lư Nhất Vũ và Lê Giang đã tổng hợp, ghi chép những thang âm, điệu thức trong âm nhạc dân gian kết hợp ghi âm, ghi lời, kí âm từ hàng trăm nghệ nhân hát dân ca trong toàn tỉnh để hoàn thiện công trình Dân ca & Thơ ca dân gian Bình Dương. Đây là công trình có giá trị và ý nghĩa, lưu lại các điệu lý, câu hò của đất Bình Dương, góp phần làm phong phú kho tàng làn điệu dân ca Nam Bộ.

Với những đóng góp cho nền âm nhạc nước nhà, nhạc sĩ Lư Nhất Vũ đã nhận được nhiều giải thưởng cao quý như: Giải thưởng Nhà nước về Văn học nghệ thuật (đợt 1, 2001); Giải thưởng về Văn học – nghệ thuật Thành phố Hồ Chí Minh (1997 – 1998); Giải thưởng Văn học nghệ thuật Huỳnh Văn Nghệ của Bình Dương (2005);...