50 năm giáo dục TPHCM • Học liệu GDĐP • Kho bài học đầy đủ theo lớp – theo khu vực •

Hình thành và phát triển của các loại hình văn hóa, văn nghệ

📘 Nội dung bài học

  1.Các loại hình diễn xướng dân gian ở Gia Định-Sài Gòn

a.Hò

 a.1.Hò huê tình

Theo ý kiến của các nghệ nhân lớn tuổi,ở các huyện ngoài Thành phố Hồ Chí Minh từ cuối thế kỉ XIX,đầu thế kỉ XX có một hình thức hò/hát huê tình rất phô biển ở Gia Định-Sài Gòn xưa.

Hò huế tình là một hình thức hò/hát giao duyên của nam và nữu đối lập với nhau,tốc độ diễn xướng rất chậm rãi,giai điệu và âm hưởng gắn với hát ru con Nam Bộ.

Ví dụ:     

                        “Ví dầu tình bậu muốn thôi

           Bậu gieo tiếng dữ, cho rồi bậu ra, …”

Nhìn chung, nét riêng biệt và trữ tình lãng mạn của điệu hò này được tạo ra nhờ sự kết hợp giữa cấu trúc lục bát đã có gieo vần với việc sử dụng các từ đệm, từ lót mang âm hưởng đặc trưng của điệu ru con Nam Bộ. Các từ đệm phổ biến như “Hò…ơ…”, “Hò .. ơ..ớ…ơ…”, “Ớ…” không chỉ bổ sung cho lời thơ mà còn giúp điệu hò truyền tải được sự lãng mạn và tình cảm rất riêng biệt của người dân nơi đây.

 a.2.Hò chèo ghe

Gia Định – Sài Gòn có rất nhiều sông ngòi, kênh rạch cho nên việc sinh hoạt, giao thương chủ yếu là anh tác lúa.Một trong những hình thức diễn bằng xuồng, ghe. Như vậy, sông nước là một trong những đặc điểm quan trọng có ảnh hưởng đến việc hình thành nên các loại hình sinh hoạt văn hoá, văn nghệ nơi đây, trong đó có hò chèo ghe.

Ví dụ:  

                         “Nhà Bè nước chảy chia hai

                        Ai về Gia Định, Đồng Nai thì về”.

Hò chèo ghe thường được diễn xướng theo lối đơn lẻ hoặc đối đáp. Với nhịp độ buông lơi và trải dài, hò chèo ghe có phần giống với hát huê tình về sự ấm áp của thể loại hát ru.

  a.3.Hò cấy

Sông ngòi, kênh rạch chảy qua Gia Định-Sài Gòn tạo điều kiện cho nông nghiệp nơi đây phát triển tốt, trong đó điển hình là cây lúa.Nhiều hình thức sinh hoạt văn hóa,văn nghệ đã được hình thành từ hoạt động cn xướng đó là hò cấy.

Ví dụ:   

                        “Gặp anh đây, cho em hỏi anh ở tổng làng nào?

                        Phụ mẫu ở nhà đầy đủ, chốn phòng đào có… chưa?”

Hò cấy thường hình thành từ hai câu thơ lục bát nhưng giai đoạn 1930-1940 trở đi thì phát triển nhiều chữ hò hơn do ảnh hưởng của hát vọng cổ.Hò cấy thường được các công cấy diễn xướng với hình thức hò đối đáp trong lúc cấy lúa giúp mọi người có điều kiện giao lưu,làm quen với nhau qua đó tạo không khí vui tươi,hăng say để lao động tốt.Một số điệu hò cấy phần lớn được tìm thấy ở ngoại thành Thành phố Hồ Chí Minh như hò mái Ố,hò mái dài,Hò hòa hơ,....

b.Lí

Theo các nghệ nhân lớn tuổi thì lí được phát triển nhất là vào giai đoạn những năm 30 của thế kỉ XIX trở về trước. Đó là những bài hát ngắn gọn, dễ nhớ thường được phổ biến bằng cách truyền miệng trong lúc lao động, sinh hoạt,… Nội dung của những bài lí thường phản ảnh cuộc sống giản dị của người dân như: trong sinh hoạt, lao động, tình cảm,… lí có thể hát tập thể hoặc cá nhân với nhiều nội dung phong phú, có thể kể một số bài như:

– Về con vật: Lí con sáo, Lí con cua, Lí kiến vàng, …

– Về cây cối: Lí cây chanh, Lí cây ớt, Lí cây ổi , …

– Về đồ vật: Lí cái phảng, Lí nón treo, Lí đá bia, …

Để bảo tồn và phát huy vốn quý của dân tộc, các ngành chức năng, các nhà nghiên cứu âm nhạc đã tiến hành nhiều hoạt động cụ thể như: sưu tầm nghiên cứu, tổ chức các hoạt động giao lưu, biểu diễn, kết hợp với các loại hình biểu diễn (đưa bài lí vào sân khấu cải lương), đưa lí vào giảng dạy ở các trường chuyên nghệ thuật, trường học phổ thông,… Với sự quan tâm tích cực đó, lí đang được bảo tồn, phát huy và phổ biến tốt tại Thành phố Hồ Chí Minh.

c.Nói vè

Nói vè là hình thức diễn xướng dân gian rất phổ biến trong sinh hoạt của người dân Gia Định-Sài Gòn xưa.Nội dung của các bài thường kể về vật hoặc sự việc nào đó.Nó vè sử dụng thể thơ 3,4 hoặc 5 chữ, giọng đọc dứt khoát theo nhịp điệu rõ ràng.

Đối với trẻ em, nói vè thường có tên gọi khác là hát đồng dao.Đồng dao có các hình thức diễn xướng như đọc,xướng có vần vè bài đồng dao hoặc kết hợp với một trò chơi.Có thể kể đến một số trò chơi kết hợp với trò chơi được trẻ em yêu thích: Chặt cây dừa,Bắc kim thang,Cùm nụm cùm nịu,Tập tầm vông,....Thông thường, khi nói vè trong đời sống sinh hoạt thường đơn giản hơn trên sân khấu.Ở sân khấu, cách nói vè của các nghệ nhân được sáng tạo nhiều hơn giúp cho tiết mục biểu diễn sinh động và có chất lượng hơn.

d.Nói thơ

  d.1.Nói thơ quân phường

Đến nay vẫn chưa tìm được tài liệu minh chứng về thời điểm ra đời chính xác của nói thơ Vân Tiên.Tuy nhiên, căn cứ vào sự ra đời truyện thơ Lục Vân Tiên của Nguyễn Đình Chiểu thì nói thơ Vân Tiên ra đời từ sau những thập niên cuối thế kỉ XIX.

Truyện thơ Vân Tiên rất được công chúng yêu thích bởi: có giá trị cao về nội dung(giá trị hiện thực,giá trị nhân đạo,tinh thần nghĩa hiệp,khát vọng của nhân dân vươn tới tương lai tốt đẹp,....) ,giá trị cao về nghệ thuật(cốt truyện,tính cách đặc trưng,ngôn ngữ của con người Nam Bộ).Từ hiệu ứng tích cực của truyện thơ Vân Tiên, nói thơ Vân Tiên ra đời như một lẽ tất yếu theo quy luật.

Ví dụ về đạo lí làm người:

                        “Trai thời trung hiếu làm đầu

           Gái thời tiết hạnh làm câu trau mình”

Ví dụ về tính nghĩa hiệp, giúp người không nệ trả công:

           “Tưởng câu báo đức thù công

           Lấy chi cho phỉ tấm lòng cùng ngươi.”

Nói thơ Vân Tiên là hình thức độc xướng truyện thơ Vân tiên theo thể thơ lực bát.Thường nội dung có tinh thực hiện cao kết hợp với diễn xướng ngân nga,tầm bổng.,nhặt khoan,...đã làm cho nói thơ Vân Tiên tiếp tục được đông đảo công chúng hưởng ứng và yêu thích.

  d.3.Nói thơ rơi                                                        

Kho tàng văn học dân gian Nam Bộ nói chung và Gia Định-Sài Gòn nói riêng có nhiều thể loại như ca dao,tục ngữ,... trong đó có một loại hình thức văn học dân gian rất phổ biến là thơ rơi. Thịnh hành vào khoảng đầu thế kỉ XX, được tầng lớp bình dân trong xã hội sử dụng nhiều và phổ biến bằng cách truyền miệng.

Một trong những đặc trưng của thơ rơi là không nêu tên người gửi và người nhận.Nội dung của thơ rơi là nhắn gửi đến cá nhân hoặc mọi người thông tin gì đó,giãi bày tâm sự cá nhân về cuộc sống,tình bạn,tình người,....

Ví dụ về thơ gửi bạn cũ:

                  “Niềm cố hữu bảo châu khó sánh

                   Nghĩa kim bằng vàng bạc khó bì”

Ví dụ về thơ tình cảm:

                                     “Dẫu em có nơi nào cũng suy đi tính lại

                                    Nên đừng quên bến cũ con đò xưa”

Thơ rơi đã từng tồn tại và phổ biến ở các huyện như: Củ chi,Bình Chánh và Hóc Môn.Thơ rơi tuy không mang tính nghệ thuật cao nhưng một thời rất được đông đảo công chúng lao động bình dân sử dụng bởi tính thực tiễn về đề tài, nội dung và cách phổ biến.

  d.4.Nói tuồng

Nói tuồng là tiền thân của hát bội nhưng hình thức biểu diễn đơn giản hơn,có mặt ở Gia Định từ lâu,có thể từ sau thế kỉ XIX.Nói tuồng cũng có một thời gian dài chiếm vị trí quan trọng trong sinh hoạt biểu diễn ở Gia Định.Có thể hình dung đơn giản,nói tuồng có thể là kể,diễn xướng lại một cách khái quát nhất của một tuồng hay một phần nào đó của tuồng cho một số ít người theo dõi.

Xét về quy mô,nói tuồng về mọi mặt đều nhỏ hơn hát bội rất nhiều.Người nói tuồng có thể chỉ một hoặc vài người và ngồi ở những nơi diện tích nhỏ để diễn xướng.Do đó,một người có thể đóng nhiều vai,khua tay,biểu cảm,... để diễn xuất theo tích cách của nhân vật trong tuồng.Những bản thơ tuồng phổ biến ở Gia Định-Sài Gòn xưa là Văn Doan diễn ca và Ông Trượng-Tiên Bửu.

Ví dụ Văn Doan Diễn Ca (Truyện Chàng Lía):

           “Chiều chiều én liệng Truông Mây,

           Cảm thương chú Lía bị vây trong thành.”

Nói tuồng tương đối dễ thực hiện bởi yêu cầu và tính chất linh hoạt của nó với nhiều mục đích khác nhau như vui chơi,tiệc sum họp,đám đình,miếu,...Sự có mặt của nói tuồng góp phần làm cho sinh hoạt văn hóa,văn nghệ ở Gia Định-Sài Gòn xưa rất đa dạng và phong phú.

  2.Nghệ thuật hát bội ở thành phố Hồ Chí Minh

Theo các nhà nghiên cứu, hát bội bắt đầu có mặt ở Gia Định từ khoảng nửa đầu thế kỉ XX và phát triển mạnh khi Tả quân Lê Văn Duyệt làm tổng trấn Gia Định. Hát bội ở Việt Nam cũng có ảnh hưởng phần nào của Trung Quốc và Chiêm Thành bởi yếu tố giao lưu văn hoá giữa các dân tộc.Có thể kể đến một số tuồng hát bội như Sơn Hậu,Tuồng Châu(Phong Thần),Ngũ biến báo phụ cửu,...

Hát bội có những nét đặc trưng rất riêng mà khi xem ta có thể dễ dàng nhận biết:

-Về trang trí sân khấu:hát bội thiết kế,trang trí đơn giản hơn so với sân khấu cải lương hoặc kịch nói.Người xem chủ yếu quan tâm đến nhân vật,cảnh trí thường có: màn,trướng,cách ngăn thêu rồng phượng(thường là màu đỏ tươi).

(Nguồn: SGK giáo dục địa phương lớp 10, thành phố Hồ Chí Minh)

-Về hóa trang;vai diễn nữ gọi là đào thường để mặt thật không trang điểm hoặc đánh phấn trắng(ngoại trừ một số vai đặc biệt phải trang điểm cho phù hợp),vai diễn nam là kép trang điểm màu sắc theo tính cách nhân vật

Với đặc trưng ở hát bội thường chú trọng đến tính cách nhân vật như:người hiền,trung thần,nịnh thần,kẻ ác,....nên phần trang điểm ở mặt,râu,tóc,.. thường được chú trọng hơn để người xem nhận ra.Ngoài ra,còn nhiều điểm đặc trưng khác như: dàn nhạc,bài bản,giọng hát,điệu bộ,...

            3.Kịch nói

Kịch nói xuất hiện ở Sài Gòn như một loại hình nghệ thuật mới lạ, thu hút sự quan tâm của học sinh, sinh viên, tầng lớp trí thức,… Những vở kịch nói thường viết về đề tài xã hội và cách bài trí sân khấu phải tương ứng với nội dung, cảnh diễn,… Về trang phục và cách hoá trang nhân vật cần phù hợp với nhân vật trong vở diễn.Từ năm 1959,có khoảng hơn 30 ban,đoàn kịch lớn nhỏ như:Kim Cương,Thẩm Thúy Hằng,Vũ Đức Duy,...góp phần đáp ứng tốt nhu cầu thưởng thức văn hóa,văn nghệ của người Sài Gòn.

Sau ngày thống nhất đất nước, được sự quan tâm của chính quyền các cấp, kịch nói ở Thành phố Hồ Chí Minh đã trở thành một loại hình nghệ thuật hoạt động thường xuyên, đáp ứng nhu cầu thưởng thức và giải trí của khán giả. Có thể kể một số vở diễn nổi tiếng được quần chúng yêu thích như: Lá sầu riêng, Dưới hai màu áo, Nhân danh công lý,… Tính đến năm 2013, Thành phố Hồ Chí Minh có tổng cộng 9 sân khấu kịch nói chưa kể các sân khấu nhỏ khác như: Nhà hát kịch sân khấu nhỏ, Sân khấu kịch Hồng Vân,... Ngoài các Trung tâm Văn hoá quận (huyện), các cơ quan, đoàn thể, công ty, xí nghiệp cũng có các đoàn kịch nói bán chuyên nghiệp hoặc nghiệp dư.

            4.Sân khấu cải lương ở Thành phố Hồ Chí Minh

Sau thời gian dài thống trị của hát bội, sân khấu cải lương ra đời như một điều tất yếu, mang tính thời đại khi trong xã hội xuất hiện các tầng lớp mang ý thức hệ mới tiến bộ hơn. Sự ra đời của gánh hát mang tên Tân Thịnh ở Sài Gòn vào năm 1920 như một sự khởi đầu cho sự hình thành và phát triển sân khấu cải lương tại Sài Gòn ở những năm tiếp theo. Có thể nêu một số nét đặc trưng cơ bản của sân khấu cải lương như sau:

-Về cách bày trí sân khấu:Mỗi vở cải lương thường chia ra nhiều màn,khi xong mỗi màn thì kéo màn lại,bên trong sân khấu thay đổi cảnh trí cho phù hợp để diễn màn tiếp.Bên trong sân khấu thay đổi cảnh trí cho phù hợp với nội dung diễn màn tiếp theo.Khán giả có thời gian giải lao,bàn luận về vở diễn,tâm lí chờ đợi màn tiếp theo,...Đây cũng là một trong những ưu điểm của sân khấu cải lương so với hát bội.

-Về cách hóa trang: Người xem cải lương có tính bao quát hơn về cảnh trí,trang phục,râu tóc,..Do đó,việc trang điểm hài hòa và không chú trọng nhiều ở khuôn mặt như hát bội.

-Về các bản ca: Khi biểu diễn,các nghệ sĩ có thể vừa đối thoại vừa diễn hoặc vừa ca những bản cải lương Nam Bộ.Đồng thời cũng có thể vừa diễn với điệu bộ khác so với hát bội

Sau khi đất nước thống nhất, sân khấu cải lương ở thành phố Hồ Chí Minh phục hồi và phát triển nhanh chóng.Các gánh hát cá nhân tổ chức giờ đây phát triển theo hình thức quản lý tập thể.Có thể kể đến như Trần Hữu Trang,Văn công Thành phố Sài Gòn,....

Các vở kịch cải lương trong thời kì này có nội dung chủ yếu về đề tài lịch sử giữ nước và dựng nước,con người mới,cuộc sống mới,...Có thể kể đến như Tiếng trống Mê Linh,Thái Hậu Dương Vân Nga,...Để có thể củng cố và phát triển nghệ thuật sân khấu cải lương trong giai đoạn mới, Thành phố Hồ Chí Minh đã có kế hoạch và nhiều hoạt động cụ thể như:Tổ chức các đợt Hội diễn,Hội thi,....qua đó tìm kiếm và phát hiện ra thêm nhiều nghệ nhân mới nhằm đóng góp cho sự phát triển của sân khấu cải lương.