50 năm giáo dục TPHCM • Học liệu GDĐP • Kho bài học đầy đủ theo lớp – theo khu vực •

Quá trình hội nhập và biến đổi văn hóa

📘 Nội dung bài học

 

            1.Lịch sử hình thành và quá trình phát triển văn hóa của Sài Gòn-Gia Định-Thành phố Hồ Chí Minh Vùng đất Sài Gòn – Gia Định – Thành phố Hồ Chí Minh có lịch sử hình thành lâu đời. Xưa kia, nơi đây trải qua nhiều thời kì Phù Nam, Chiêm Thành, Chân Lạp, Sài Gòn xưa, ...là nơi có vị trí địa lí thuận lợi cho thông thương và có nhiều dân tộc sinh sống. Vì vậy, sự giao lưu, tiếp nhận và biến đổi văn hoá là không thể tránh khỏi, điều này thể hiện rõ nét qua các giai đoạn lịch sử.

 a.Giai đoạn Sài Gòn-Gia Định trước năm 1968

Sài Gòn ban đầu là vùng đất thuộc Chân Lạp nhưng trên danh nghĩa, vốn là đất tự do, hoang nhàn, và hầu như vô chủ. Thời kỳ hình thành chính thức của Sài Gòn được xác định từ năm 1623 đến năm 1698. Sự định hình này bắt đầu từ việc Nhà Nguyễn cho phép lưu dân người Hoa (chạy loạn từ nhà Minh) vào khai khẩn đất đai vào năm 1679. Cư dân Sài Gòn khi đó là một cộng đồng đa dạng, bao gồm các tộc người bản địa cổ (như Xtiêng, Cơ Ho, Khmer), lưu dân người Việt từ Đàng Ngoài, và lưu dân người Hoa. Dân số Sài Gòn lúc này ước tính khoảng 10.000 người, chiếm một phần hai mươi tổng số dân miền Đông Nam Bộ.

Sài Gòn ban đầu là vùng đất thuộc Chân Lạp nhưng trên danh nghĩa, vốn là đất tự do, hoang nhàn, và hầu như vô chủ. Thời kỳ hình thành chính thức của Sài Gòn được xác định từ năm 1623 đến năm 1698. Sự định hình này bắt đầu từ việc Nhà Nguyễn cho phép lưu dân người Hoa (chạy loạn từ nhà Minh) vào khai khẩn đất đai vào năm 1679. Cư dân Sài Gòn khi đó là một cộng đồng đa dạng, bao gồm các tộc người bản địa cổ (như Xtiêng, Cơ Ho, Khmer), lưu dân người Việt từ Đàng Ngoài, và lưu dân người Hoa. Dân số Sài Gòn lúc này ước tính khoảng 10.000 người, chiếm một phần hai mươi tổng số dân miền Đông Nam Bộ.

Năm 1679, Sài Gòn đã được các cơ quan cai trị và quân sự thiết lập cố định với quy mô lớn theo “dân làng mở đất trước, nhà nước đến cai trị sau”. Sài Gòn từ nửa sau thế kỉ XVII, với vị trí thiên nhiên thuận lợi và sự tập trung các cơ quan Việt Nam bán chính thức, cùng những thành tựu khẩn hoang lập ấp và thông thương của lưu dân đã nhanh chóng 24 trở thành một thị trấn quan trọng trong vùng Nam Đông Dương. Giai đoạn này, văn hoá bản địa vẫn còn phủ rộng và có tiếp xúc với văn hoá của lớp lưu dân Đại Việt thuở ban đầu.

  b.Sài Gòn-Gia Định trong thời các chúa Nguyễn(1698-1859)

Sài Gòn chính thức bước vào giai đoạn có chính quyền quản lý vào năm 1698 khi chúa Nguyễn cử Thống suất Nguyễn Hữu Cảnh vào kinh lược, lập ra phủ Gia Định (gồm dinh Trấn Biên và dinh Phiên Trấn thuộc huyện Tân Bình). Sự kiện này là cột mốc đầu tiên xác lập chủ quyền và bảo hộ của chúa Nguyễn tại đây. Cùng với việc thành lập phủ Gia Định để thống nhất quản lý toàn miền Nam, chính quyền còn tích cực chiêu mộ lưu dân có vật lực từ Ngũ Quảng đến khai phá, mở mang đất đai. Nhờ vị trí chiến lược và sự phát triển mạnh mẽ của thương mại lúa gạo, Sài Gòn nhanh chóng trở thành một trung tâm chính trị, quân sự và một thành thị thương mại quốc tế rất sớm, với nhiều chợ, phố giao dịch và bến cảng quan trọng (như cảng Sài Gòn). Trải qua các biến động lịch sử, đến năm 1802, phủ Gia Định được đổi thành trấn Gia Định (thời kỳ Gia Định ngũ trấn). Đặc biệt, dưới thời Tổng trấn Lê Văn Duyệt (1823–1832), việc đào kênh An Thông (nay là kênh Bến Nghé) đã đưa Chợ Lớn trở thành nơi đô hội tấp nập. Cuối cùng, từ năm 1832 đến 1859, Gia Định thành đã phát triển thành Nam Kỳ Lục tỉnh, bao trùm toàn bộ vùng đất Nam Bộ.

Cuối thế kỉ XVIII, Sài Gòn đã trở thành một trung tâm văn hoá đa sắc do sự tiếp nhận, giao thoa giữa văn hoá bản địa, văn hóa vùng Ngũ Quảng với văn hoá Trung Hoa. Văn hóa vùng Ngũ Quảng được cư dân bản địa tiếp nhận, cùng với sự thuận lợi trong cuộc sống 25 đã làm cho con người vùng đất nơi đây trở nên phóng khoáng, hào sảng, dễ đón nhận những điều hay ý đẹp, những đạo lí tốt đẹp trong cuộc sống,... Tất cả đã đi vào ứng xử lối sống thường ngày, qua giọng hò, điệu lý, thể hiện qua các nghi lễ thực hành tín ngưỡng tại các đình, miếu, qua nghệ thuật Hát Bội,...

Sự giao lưu, tiếp biến văn hoá người Hoa thể hiện rõ qua hệ thống cơ sở tín ngưỡng miếu, hội quán tập trung ở Quận 5 như Miếu Bà Thiên Hậu, miếu Ông Quan Công; nghệ thuật múa lân sư rồng, lễ hội Tết Nguyên tiêu, tiết Thanh Minh; ... Đây là kết quả của sự tiếp nhận, giao lưu và biến đổi văn hoá đô thị, sông nước của Sài Gòn – Gia Định.

  2.Trào lưu văn hóa dưới ách thống trị của thực dân Pháp và đế quốc Mỹ(1859-1975)

Trong giai đoạn Pháp và Mỹ xâm lược, văn hóa Việt Nam đã có sự biến đổi rõ rệt khi tiếp nhận nhiều yếu tố tích cực của văn hóa phương Tây nhưng vẫn giữ vững cốt lõi văn hóa Việt Nam truyền thống. Ảnh hưởng phương Tây lan rộng đến nhiều lĩnh vực như tôn giáo (Công giáo), tư tưởng, văn học nghệ thuật, kiến trúc, công nghiệp, và ẩm thực. Biểu hiện rõ ràng nhất của sự tiếp nhận này là trong lĩnh vực ngôn ngữ và chữ viết. Chữ Quốc ngữ, dựa trên hệ thống chữ cái Latinh và dấu phụ, đã dần hình thành và ra đời, thay thế hệ thống chữ Hán và chữ Nôm truyền thống. Mặc dù tiếng Pháp và tiếng Anh được sử dụng rộng rãi, sự tiếp xúc ngôn ngữ và tiếp nhận chữ viết nước ngoài này không làm mất đi căn tính Việt, mà ngược lại, đã trở thành công cụ quan trọng giúp phát triển văn học và khoa học cho Việt Nam.

Kiến trúc Pháp hiện còn ở Thành phố Hồ Chí Minh như: Chợ Bến Thành, Nhà thờ Đức Bà, Nhà hát Thành phố, Bưu điện Thành phố, Bến Nhà Rồng, Trụ sở Uỷ ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, ... mang dấu ấn giao thoa văn hoá Việt – Pháp rõ rệt. Pháp quan tâm đến việc phát triển đô thị, cho xây dựng đường, cầu, cảng, nhà máy, ... để phát triển kinh tế nhằm thu lợi cho thực dân. Năm 1901, Pháp làm đường xe lửa Sài Gòn – Nha Trang; năm 1902, làm cầu Bình Lợi trên sông Sài Gòn, .... Nhờ đó, trong giai đoạn này Sài Gòn đã chuyển từ văn hoá nông nghiệp thành văn hoá công nghiệp.

Trong thời kỳ đế quốc Mỹ xâm lược, dù tiếp xúc nhiều về văn hoá phương Tây nhưng văn hoá cốt lõi Việt Nam vẫn trường tồn. Người Việt tiếp nhận những ưu việt của văn hoá phương Tây và đào thải những luồng văn hóa không phù hợp, với quan điểm “hoà nhập nhưng không hoà tan”. Với bản lĩnh văn hoá của mình, người dân Sài Gòn đã biết tìm cách hạn chế những mặt tiêu cực của văn hoá Mỹ và chọn lọc tiếp thu những mặt tích cực như khoa học – kỹ thuật, quản lý kinh tế, nếp sống kỷ cương tôn trọng pháp luật, ...

Thời kì này, Sài Gòn trở thành trung tâm kinh tế, văn hoá của Nam Bộ, là một đô thị lớn mang yếu tố đô thị sông nước và mệnh danh là “Hòn ngọc Viễn Đông” với nền kinh tế phát triển, văn hoá đa dạng. Một trong những nét văn hoá thể hiện rõ bản sắc văn hoá Việt Nam nói chung và văn hoá Nam Bộ nói riêng là sự kính ngưỡng của nhân dân Sài Gòn – Gia Định đối với Tả quân Lê Văn Duyệt. Lăng Ông Bà Chiểu là nơi thể hiện văn hoá nghệ thuật đặc sắc của văn hoá Nam Bộ như kiến trúc, lễ hội, ẩm thực, ... Đây là nơi để người dân Sài Gòn thể hiện tín ngưỡng, bản sắc văn hoá của mình.

Năm 1911, Nguyễn Tất Thành từ bến cảng Nhà Rồng rời Sài Gòn ra đi tìm đường cứu nước là một trong những sự kiện lịch sử tự hào của vùng đất này,khẳng định tinh thần yêu nước của dân tộc Việt Nam.

(Nguồn: SGK giáo dục địa phương lớp 10,thành phố Hồ Chí Minh)

Nhìn chung, trong suốt chặng đường dài ảnh hưởng văn hoá phương Tây, người Việt đã chọn lọc tiếp nhận, tạo nên sự đa dạng, phong phú cho văn hoá Việt Nam: đó là sự tiếp nhận, giao thoa và biến đổi giữa văn hoá Việt với văn hoá Chăm, Hoa, Khmer, phương Tây,… Có thể tóm lược văn hoá giai đoạn Sài Gòn – Gia Định (1698 – 1975) được tiếp xúc, tiếp nhận và biến đổi qua ba lớp văn hoá sau đây tạo nên sự đa dạng văn hoá của vùng đất này như sau:

– Lưu dân Thuận – Quảng (thuộc vùng Ngũ Quảng) vào Nam khai khẩn tiếp nhận với văn hoá cư dân bản địa.

– Văn hoá Việt tiếp xúc văn hoá Hoa và văn hoá Việt tiếp xúc văn hoá phương Tây (Pháp – Mỹ).

– Văn hoá Việt tiếp xúc văn hoá Chăm – Hoa – Khmer – Mã Lai, ...

  3.Quá trình hội nhập và phát triển văn hóa thành phố Hồ Chí Minh từ năm 1975 đến nay

  Chính sách mở cửa và hội nhập kinh tế thị trường đã tạo điều kiện quan trọng để văn hoá thế giới "thâm nhập" sâu rộng vào Việt Nam. Văn hoá phương Tây, đặc biệt là từ Mỹ, đã có ảnh hưởng lớn thông qua việc du nhập các sản phẩm kinh tế trong lĩnh vực phim ảnh, băng đĩa, sách báo, áo quần, thức ăn nhanh, đồ uống đóng hộp và hàng hoá tiêu dùng. Đặc biệt, truyền hình đã trở thành công cụ đắc lực giúp văn hoá các nước lan tỏa và gần gũi hơn, khiến các chương trình ca nhạc và thời trang được giới trẻ quan tâm, cởi mở đón nhận và say sưa "bắt chước". Bên cạnh đó, thời trang, ca nhạc, phim ảnh từ các nước Châu Á như Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản, Thái Lan cũng ảnh hưởng nhiều đến lối sống của giới trẻ Thành phố Hồ Chí Minh. Ngoài ra, cư dân Thành phố cũng tiếp nhận tôn giáo và tín ngưỡng một cách cởi mở hơn, với các hoạt động giao lưu sôi nổi giữa các tôn giáo và cơ sở tín ngưỡng. Các tín đồ tham gia hoạt động của nhiều tôn giáo và tín ngưỡng dân gian khác nhau, thể hiện sự hòa đồng và cởi mở trong việc tiếp nhận văn hoá giữa các tộc người sinh sống tại đây

Nhìn chung, sau giai đoạn thống nhất và đổi mới đất nước, Thành phố Hồ Chí Minh đã bước vào giai đoạn tiếp xúc, hội nhập và lan toả văn hoá với thế giới. Hội nhập quốc tế đã lan toả văn hoá Việt Nam đến nhiều quốc gia trên thế giới và tiếp nhận nhiều nền văn hoá khác qua các lễ hội, tôn giáo, tín ngưỡng, giáo dục, ngôn ngữ, nghệ thuật, thể thao, ẩm thực, trang phục,... Công nghệ phát triển đã giúp con người trên toàn thế giới có thể kết nối với nhau, thậm chí trở thành công dân toàn cầu.