Võ Trường Toản quê ở làng Hòa Hưng, huyện Bình Dương, Gia Định(nay là TP Hồ Chí Minh). Ông sống vào thế kỉ XVIII.Tổ Tiên ông có nguồn gốc từ miền Trung di cư vào miền Nam.Trong suốt những năm chiến tranh giữa Tây Sơn và nhà Nguyên, Võ Trường Toản sống ẩn dật,ông từ chối mọi lời mời tham gia vào chính sự và không phụng sự bên nào.Khi “bình định” được Gia Định, Gia Long (tức Nguyễn Phúc Ánh) thường triệu ông đến bàn luận việc nước. Khi lên ngôi vua, vua Nguyễn Phúc Ánh nhiều lần muốn phong quan tước cho ông nhưng đều bị từ chối, ông chỉ mong muốn chuyên tâm vào việc dạy học,đào tạo nhân tài cho đất nước.Vua rất khen và tiếc vì không trọng dùng tài của ông. Năm Nhâm Tý (1972), Võ Trường Toản mất, vua truy tặng ông danh hiệu “Gia Định Thành xử sĩ Sùng Đức Võ tiên sinh”, lấy hiệu này khác vào mộ chí của ông.

(Nguồn: SGK giáo dục địa phương lớp 10 thành phố Hồ Chí Minh)
Từ những sự kiện ít ỏi còn lưu lại vào tiểu sử, thơ văn của ông, hậu thế hình dung Võ Trường Toản là một vị thầy uy nghi, mẫu mực, khẳng khái, đức độ, không quá quan trọng,công danh. Trong sự nghiệp giáo dục, ông được sĩ phú Nam Bộ xưng tôn là danh sư, người đặt nền móng cho nền giáo dục phương Nam, có ảnh hưởng rộng lớn đến học vấn, đạo đức của giới sĩ phu, nhân dân Nam Kỳ lúc bấy giờ. Võ Trường Toản chú trọng hướng con người đến lễ nghĩa,nhân hậu, chí khí. Phan Thanh Giản từng nhận xét: Nhân dân Nam Bộ “trung nghĩa cảm phát, liều chẳng tiếc mình” khi đất nước cần cũng xuất phát từ công “khai đạo” của ông. Không giống các nhà Nho cùng thời, phương pháp dạy học của Võ Trường Toản theo “nghĩa lễ để giáo hóa”.Khi giảng với học trò về sách Đại học, một sách trong Tứ thư, ông nói rõ: “Sách Đại học một nghìn bảy trăm chữ, tán ra gồm vô số sự vật, tóm lại còn hai trăm chữ, tóm nữa thì còn một chữ, tóm lại nữa một chữ cũng không”. Từ đó hiểu rộng ra, khi đọc một cuốn sách không nên học vẹt từng câu, từng chữ câu nệ tiểu tiết mà cần thấu hiểu nội dung cơ bản, cốt lõi, đó gọi là “tri ngôn dưỡng khí”.Tư tưởng này của ông ảnh hưởng sâu sắc đến những nho sĩ tài danh thế hệ hậu bối như: Nguyễn Đình Chiểu, Phan Văn Trị, Bùi Hữu Nghĩa, Trương Định, Nguyễn Hữu Huân,... Đối chiếu với thực tiễn giáo dục, cách dạy học của Võ Trường Toản vẫn còn nguyên giá trị.
Sinh thời, môn sinh dưới trướng ông có mấy trăm người. Trong số học trò của ông nhiều người trở thành trụ cột quốc gia như: Ngô Tùng Châu, Trịnh Hoài Đức, Lê Quang Định, Ngô Nhơn Tịnh (Ngô Nhân Tĩnh). Họ không chỉ sáng tác thơ văn yêu nước mà còn đem tài năng thi thố lập được nhiều công danh, như Ngô Tùng Châu từng dạy hoàng tử Cảnh, Trịnh Hoài Đức làm thượng thư bộ Lại kiêm bộ Binh, Lê Quang Định làm thượng thư bộ Hộ kiêm quản Khâm thiên giám, Ngô Nhơn Tịnh làm thượng thư bộ Công lãnh chức Hiệp trấn Gia Định thành,... Họ cũng đóng góp rất nhiều trong lĩnh vực ngoại giao của nước nhà với nhiều lần đảm nhiệm vai trò sứ giả đi giao ban với các nước lân cận. Thấm nhuần tư tưởng “thật chất, uyên thâm, thông đạt” được truyền dạy, họ đã viết nên các công trình khoa học lịch sử và địa lí có giá trị như: Gia Định thành thông chí (Trịnh Hoài Đức), Hoàng Việt nhất thống địa dư chí (Lê Quang Định), Nghệ An phong thổ ký(Ngô Nhơn Tịnh viết cùng Bùi Dương Lịch).
Những đóng góp to lớn của ông cho đất nước được nhân dân nước ta bao đời tôn vinh. Sinh thời, ông từng mở trường dạy học tại đình Chí Hòa, làng Hòa Hưng (nay tọa lạc tại một con hẻm nhỏ đường Cách Mạng Tháng Tám, Phường 13, Quận 10, Thành phố Hồ Chí Minh). Trong đình, hiện có một khu vực đặt bàn thờ và tượng ông.
Năm 1867, Phan Thanh Giản là Kinh lược sử Nam Kỳ, dù không phải học trò của Võ Trường Toản nhưng hết lòng tôn kính, đã cùng Đốc học Vĩnh Long là Nguyễn Thông tổ chức dời mộ ông và gia đình(vợ và con gái) tại Hòa Hưng, Thành phố Hồ Chí Minh đưa về an táng tại huyện Ba Trì, tỉnh Bến Tre (nay thuộc tỉnh Vĩnh Long). Chính tay Phan Thanh Giản soạn một bài văn bia khắc ở mộ Võ Trường Toản, tóm tắt tiểu sử và nêu bật công đức của bậc tôn sư. Hằng năm, đến ngày giỗ ông, chính quyền địa phương và nhân dân từ khắp nơi đến dâng hương kính viếng, tỏ lòng tôn kính bậc danh nhân rất động.
Hiện nay, tại Văn miếu Trấn Biên (Đồng Nai), Văn Thánh miếu(Vĩnh Long), có thờ Võ Trường Toản. Nhiều ngôi trường, con đường trên khắp cả nước vinh dự được mang tên ông.
Võ Trường Toản là một nho sĩ yêu nước, nhà giáo mẫu mức, hết lòng vì nước vì dân, là tấm gương sáng cho các thế hệ học trò và nhà giáo sau này noi theo. Noi gương ông, nhiều thế hệ học trò không vì mưu lợi cầu vinh mà quên trách nhiệm với với quốc gia, dân tộc. Các thế hệ nhà giáo tiếp nối ông cố gắng tu dưỡng phẩm chất thanh cao để làm gương cho học trò và muôn đời sau. Vì vậy, không bất ngờ khi ông được các nhân sĩ tri thức, các nhà nghiên cứu thống nhất tôn là “Cụ tổ ngành giáo dục Nam Kỳ”.